SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN LỚP 2 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

 

 

MỤC LỤC

  1. PHẦN MỞ ĐẦU
  2. Lý do chọn đề tài………………………………………………………. 1
  3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………. 2
  4. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………… 2
  5. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………… 2
  6. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………… 3
  7. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………… 3
  8. NỘI DUNG
  9. Cơ sở lí luận……………………………………………………………. 3

1.1 Căn cứ vào mục tiêu của giáo dục Tiểu học………………… 3

1.2 Căn cứ vào mục tiêu của môn học……………………………… 3

1.3 Căn cứ vào quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 2…………………………………………………………………………………. 4

1.4 Căn cứ vào mục tiêu của phân môn Kể chuyện……………. 4

  1. Thực trạng

2.1 Thực trạng trường Tiểu học………………………………………. 4

2.2 Thực trạng việc dạy học phân môn Kể chuyện lớp 2 trường Tiểu học…………………………………………………………………… 5

2.3 Nguyên nhân………………………………………………………….. 9

  1. Một số biện pháp

3.1. Cung cấp, mở rộng và nhân vốn từ ngữ cho học sinh. 6                                                           3.2. Tổ chức một số trò chơi trong giờ kể chuyện……………………………………………….. 7

3.2.1.Thi  kể chuyện truyền điện………………………………. 7

3.2.2. Thi kể chuyện theo lời nhân vật…………………….. 10

3.2.3. Thi sắp xếp đúng trình tự câu chuyện…………….. 11

  1. 2.4.Tổ chức cho học sinh đóng vai……………………… 13

3.3 Tổ chức chuyên đề……………………………………………… 17

3.4 Một số biện pháp áp dụng khác……………………………. 18

  1. Kết quả- Bài học kinh nghiệm……………………………. 18

C – KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ……………………………………. 19

  1. Kết luận…………………………………………………………………. 19
  2. Kiến nghị……………………………………………………………….. 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………… 21

 

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ
  2. Lý do chọn đề tài

Bậc Tiểu học là bậc học quan trọng, đặt nền móng cho giáo dục phổ thông. Bởi giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và các kỹ năng cơ bản để học sinh học tiếp các bậc tiếp các bậc học sau.

Kể chuyện là một phân môn lí thú và hấp dẫn ở các lớp trong trường tiểu học. Tiết kể chuyện thường được các em đón nhận với tâm trạng hào hứng và thích thú. Khác với các giờ học khác: tập đọc, luyện từ và câu… ở tiết kể chuyện, giáo viên và học sinh gần như là thoát li khỏi sách giáo khoa mà được giao hoà tình cảm một cách hồn nhiên thông qua nội dung những câu chuyện được kể. Thông qua lời kể của giáo viên và lời kể của học sinh mọi người như được sống trong những giây phút hồi hộp đầy cảm xúc ngoài qui chế thông thường của một tiết lên lớp bởi không có những hiện tượng căng thẳng như quay cóp, sao chép…Gần như mối quan hệ thầy trò mới được xác lập giữa một không khí mới, không khí cổ tích, không khí của sự khích lệ, không khí của lòng vị tha rất đỗi thanh tao.

Thực tế hiện nay trong chương trình lớp 2 phân môn kể chuyện gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập đọc ở lớp 2, nội dung tiết Kể chuyện là kể lại câu chuyện học sinh đã học trong bài tập đọc ở hai tiết mở đầu mỗi tuần.

Kể chuyện ở đây là học sinh tái hiện lại câu chuyện có sáng tạo bài đọc vừa học. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh kể được một câu chuyện hay, giàu cảm xúc là một kĩ năng khó của phân môn kể chuyện. Bởi vậy, hiệu quả giờ dạy kể chuyện còn rất hạn chế. Nhưng làm thế nào để dạy tốt tiết kể chuyện? Làm thế nào để gây hứng thú đối với các em? Đó là một vấn đề quan trọng được các nhà giáo dục quan tâm. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 2 bản thân tôi rất trăn trở cho chất lượng dạy tiết kể chuyện, với mục đích rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh không chỉ đọc thuộc, nhớ nội dung câu chuyện mà còn phải biết nhập vai để thể hiện được giọng kể, nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, phù hợp với mỗi nhân vật trong từng đoạn chuyện, trong từng câu chuyện kể. Chính điều đó mà tôi cũng đã suy nghĩ và nghiên cứu vấn đề này: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Kể chuyện lớp 2 ở Trường Tiểu học”.

  1. Mục đích nghiên cứu

– Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Kể chuyện lớp 2 ở trường Tiểu học.

– Rút ra những kinh nghiệm dạy phân môn Kể chuyện lớp 2 nhằm nâng cao

hiệu quả trong quá trình dạy môn Tiếng Việt nói chung và dạy phân môn kể

chuyện nói riêng trong trường Tiểu học.

  1. Đối tượng nghiên cứu

– Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Kể chuyện lớp 2 ở Trường Tiểu học.

  1. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Tìm hiểu cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh và dạy học phân môn kể chuyện lớp 2.

– Tìm hiểu về thực trạng kể chuyện trong phân môn kể chuyện khối lớp 2 ở trường Tiểu học.

– Đề xuất các giải pháp giúp giáo viên áp dụng một số phương pháp vào dạy học sinh kể tốt các câu chuyện trong phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 2 tại trường Tiểu học.

  1. Phương pháp nghiên cứu:

– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

– Phương pháp điều tra, phương pháp quan sát.

– Phương pháp thực nghiệm.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

– Phương pháp phỏng vấn.

  1. Phạm vi nghiên cứu:

* Nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa, các loại sách tham khảo Tiếng Việt lớp 2 để giáo viên nắm chắc trọng tâm chương trình môn học.

* Điều tra tình hình thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài:

+ Trao đổi với đồng nghiệp để đánh giá khả năng kể chuyện của học sinh để từ đó rút ra phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả.

+ Dự giờ giáo viên cùng khối để nắm được phương pháp giảng dạy hướng dẫn học sinh kể chuyện để rút ra bài học kinh nghiệm quý báu.

+ Đề xuất một số giải pháp về hướng dẫn học sinh kể chuyện trong phân môn Kể chuyện.Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.

 

  1. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
  2. Cơ sở lí luận

1.1. Căn cứ vào mục tiêu của giáo dục Tiểu học

Trong Mục 2 Điều 23 của Luật Giáo dục có quy định mục tiêu của giáo dục Tiểu học như sau: “Giáo dục Tiểu học nhằm hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở.”

1.2. Căn cứ vào mục tiêu của môn học

Môn Tiếng Việt hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong cả môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc học Tiếng Việt, các em được rèn luyện các thao tác tư duy, bồi dưỡng cho các em những tư tưởng, tình cảm trong sáng lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếng Việt còn được coi là bộ môn công cụ giúp các em tiếp thu tri thức ở các bộ môn khoa học khác thông qua con đường nghe – nói – đọc – viết.

Đặc biệt hơn môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh hệ thống từ ngữ và kỹ năng sử dụng từ ngữ để diễn đạt chính xác bởi từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Vốn từ của học sinh phong phú và nắm chắc được nghĩa của từ thì giúp các em trình bày tư tưởng tình cảm trong sáng, đặc sắc. Vì điều kiện hàng đầu để phát triển ngôn ngữ chính là số lượng từ học sinh nắm được cho nên ở Tiểu học từ ngữ không chỉ được dạy ở phân môn Luyện từ và câu mà còn được dạy ở các phân môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết và các môn khác như Toán, Tự nhiên và xã hội, Đạo đức,…

1.3. Căn cứ vào quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 2

  1. 3.1. Quan điểm giao tiếp

Để thực hiện mục tiêu “Hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt” để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, cũng như sách Tiếng Việt lớp 1, 3, 4, 5 sách giáo khoa Tiếng Việt 2 lấy nguyên tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản.

Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện: Nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung, thông qua các môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn, Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang bị những tri thức và phát triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.

 1.3.2. Quan điểm tích hợp

Tích hợp là tổng hợp một đơn vị học, thậm chí một tiết học hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kỹ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian cho người học. Có thể thực hiện tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.

 1.3.3. Quan điểm tích cực hoá hoạt động của học sinh

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa là đổi mới phương pháp dạy và học: Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó thầy giáo (cô giáo) đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển.

1.4. Căn cứ vào mục tiêu của phân môn Kể chuyện

– Phân môn Kể chuyện trang bị kiến thức và rèn luyện các kỹ năng kể cho học sinh.

– Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy lôgic, tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mỹ hoàn thành nhân cách cho học sinh.

  1. Thực trạng giảng dạy phân môn Kể chuyện lớp 2 ở Trường Tiểu học

2.1. Đặc điểm chung của trường nơi tôi công tác

  1. Thuận lợi

Là trường Tiểu học thuộc Quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Vì thế, trang thiết bị dạy học của Trường tương đối đầy đủ đáp ứng cho nhu cầu dạy học và các hoạt động giáo dục toàn diện. Đội ngũ cán bộ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao. Công tác xã hội hoá giáo dục đang ngày càng được đẩy mạnh ở địa phương, đặc biệt là sự quan tâm của các bậc phụ huynh, các cấp chính quyền và Phòng giáo dục và Đào tạo luôn quan tâm và chỉ đạo sát sao tới công tác giáo dục của nhà trường.

Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học. Các tổ chuyên môn là môi trường tốt để giáo viên học hỏi và nâng cao tay nghề.

Cha mẹ học sinh của trường cơ bản là nông dân, là những người có trình độ chưa thật cao nhưng họ đều mong muốn con em được phát triển toàn diện, năng động và tự tin.

  1. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi trên, nhà trường cũng gặp không ít những khó khăn:

– Học sinh có nhiều nhóm đối tượng, mặt bằng dân trí không đồng đều. Một bộ phận phụ huynh có nhận thức về giáo dục còn hạn chế nên phó mặc việc học hành của con em mình cho nhà trường, trăm sự nhờ thầy cô.

Địa phương có nhiều đối tượng là người nhập cư đến thuê trọ sinh sống, nghề nghiệp không ổn định nên cuộc sống còn nhiều khó khăn, rất nhiều học sinh bố mẹ đi làm ăn xa, ở với ông bà già yếu, không có sự quan tâm của gia đình nên việc học tập của các em còn chểnh mảng.

2.2. Thực trạng của việc dạy- học phân môn Kể chuyện lớp 2 trường Tiểu học

2.2.1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện lớp 2

Thông qua việc dự giờ – thăm lớp, qua trao đổi với các bạn đồng nghiệp tôi nhận thấy rằng đa số giáo viên dạy phân môn kể chuyện còn có những tồn tại như: việc chuẩn bị các đồ dùng dạy học thường xuyên để minh hoạ cho câu chuyện thêm sinh động còn hạn chế, chưa có tranh phóng to minh họa các bài kể chuyện, giáo viên sử dụng tranh thì cũng chỉ dùng tranh phô tô ở trong sách giáo khoa, hay vẫn còn tình trạng đề cao vai trò trung tâm của người thầy mà chưa thực sự chú trọng tới vai trò trung tâm của trò trong việc lĩnh hội tri thức. Phương pháp dạy “Kể chuyện” chưa phong phú, chưa có sự đổi mới rõ rệt. Do đó, học sinh tiếp thu và lĩnh hội tri thức một cách thụ động, ghi nhớ một cách máy móc. Hình thức tổ chức hoạt động học tập còn đơn điệu, nghèo nàn chưa gây hứng thú học tập cho học sinh. Giáo viên chưa quan tâm hết đến các đối tượng học sinh. Chính vì điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nhận thức và sự phát triển tư duy của học sinh.

2.2.2. Đối với việc dạy phân môn Kể chuyện lớp 2

Trường tôi đã thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học theo sự chỉ đạo của Sở Giáo dục Hà Nội và Phòng Giáo dục & Đào tạo. Đối với môn Tiếng Việt, nhà trường đã tổ chức chuyên đề dạy kể chuyện theo tinh thần đổi mới. Như vậy, đa số giáo viên trong trường đều đã nắm được phương pháp dạy kể chuyện. Tuy nhiên điều đó mới chỉ được thể hiện trên giáo án, trong các tiết dạy hội giảng hay dự giờ. Thực tế việc dạy kể chuyện vẫn còn những tồn tại:

– Một số giáo viên còn xem nhẹ tiết kể chuyện nên đã dành ít thời gian cho nội dung này.

– Các câu chuyện kể lớp 2 lại là những câu chuyện đã được học trong giờ tập đọc trước. Do đó giáo viên thường nghĩ rằng học sinh đã nhớ được cốt truyện nên cho học sinh đọc lại một cách qua loa nội dung bài tập đọc đó rồi cho hoạc sinh tự kể lại câu chuyện theo nhóm hoặc kể trước lớp một cách đơn điệu. Sau đó yêu cầu học sinh về nhà tập kể lại câu chuyện.

2.2.3. Đối với học sinh trong quá trình học tập phân môn Kể chuyện lớp 2

– Như chúng ta đã biết, các câu chuyện kể trong tiết kể chuyện lớp 2 là những câu chuyện trong bài tập đọc đầu tuần chứ không phải là những câu chuyện mới lạ được biên soạn thành sách truyện đọc riêng như trước. Chính điều này đã giúp học sinh có nhiều thuận lợi trong việc nhớ và thuộc nội dung câu chuyện nhưng lại hạn chế về sự hứng thú, sự hào hứng chờ đợi và kể chuyện bởi những câu chuyện kể này đã biết.

– Khi kể chuyện trong nhóm, trước lớp, một số em chưa nhớ nội dung truyện còn ngại ngùng không dám bộc lộ khả năng của mình.

Từ cơ sở khoa học và thực tiễn, để khắc phục thực trạng tôi đã tập trung hơn, tiến hành khảo sát học sinh lớp khối 2 tại thời điểm đầu học kỳ I năm học 2017-2018 với  kết quả như sau:

TT Lớp Sĩ số Học sinh

kể tốt

Học sinh

biết kể.

Học sinh

chưa biết kể.

1 2A1 48 10= 20,8% 33= 68,5% 5 =  10,7%
2 2A2 46 12= 25% 30=62,5% 4= 12,5%

 

2.3. Nguyên nhân

  1. Nguyên nhân khách quan

– Do một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến con cái.

– Điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy của phân môn còn đơn sơ. Việc tiếp cận với phương tiện hiện đại và đưa phương tiện hiện đại vào dạy học của một số giáo viên còn chậm.

  1. Nguyên nhân chủ quan

Một số giáo viên chưa thấy hết được tầm quan trọng của mỗi phương pháp dạy học, chưa khai thác hết mặt mạnh, khắc phục những tồn tại của mỗi phương pháp. Do đó, việc lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đạt hiệu quả cao.

  1. Một số biện pháp

Trước những thực trạng nêu trên, tôi cũng đã nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp tổ chức có hiệu quả. Tôi xin trình bày một số biện pháp như sau:

3.1. Cung cấp, mở rộng và nhân vốn từ ngữ cho học sinh

  1. Mục tiêu

Cung cấp vốn từ giúp học sinh có vốn từ phong phú, để học sinh tự tin trong giao tiếp, khi kể chuyện các em có khả năng diễn đạt được trí tưởng tượng của mình trong từng câu chuyện kể.

  1. Nội dung và cách thức thực hiện

 Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn, việc sử dụng từ ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tôi đã cung cấp vốn từ cho học sinh giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Khi dạy Luyện từ và câu tôi đã chú trọng mở rộng vốn từ cho học sinh, bằng cách cho các em thi nhau tìm những từ ngữ thuộc chủ đề, chủ điểm các em đang học. Khi học sinh không tìm được từ nhiều, tôi đã nêu câu hỏi gợi mở để các em hiểu và dễ dàng tìm được.

Bên cạnh đó, tôi đã giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa phù hợp với chủ đề các em học.

– Chú trọng nhân vốn từ của học sinh.

– Chú trọng cách dùng từ đặt câu của học sinh.

– Tăng cường, củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh.

Đồng thời trong quá trình giảng dạy, tôi thường liên hệ những nội dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu và phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp.

3.2. Tổ chức một số trò chơi trong giờ kể chuyện.

Để tiết kể chuyện của học sinh có hiệu quả cần phải thường xuyên thay đổi phương pháp và hình thức học tập tạo cho học sinh niềm vui cùng sự hứng thú trong khi kể chuyện. Chính vì thế, trong các giờ kể chuyện tôi thường sử dụng một số trò chơi sau:

3.2.1. Thi kể chuyện truyền điện.

  1. Mục tiêu

Mục đích của hình thức này là tôi rèn cho học sinh  kĩ năng kể đúng, kể đủ ý và mạch lạc từng đoạn của câu chuyện theo gợi ý của đoạn hoặc tranh minh hoạ. Học sinh biết phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bạn để kể cho hấp dẫn và liền mạch.

  1. Cách chơi như sau

b.1. Kể chuyện truyền điện theo tranh

* Chuẩn bị

– 2 nhóm học sinh tham gia cuộc thi (số học sinh bằng nhau).

– Bộ tranh vẽ minh hoạ từng đoạn của câu chuyện (tranh vẽ trên khổ giấy A3)

* Luật chơi

– Giáo viên treo bộ tranh minh hoạ cho từng đoạn của câu chuyện.

– Hai đội lên “bắt thăm” hoặc “oẳn tù tì” để chọn đội kể trước.

– Giáo viên mời học sinh 1 của 1 đội (xung phong) đứng lên kể đoạn 1 của câu chuyện theo nội dung của tranh số 1. Sau khi học sinh 1 kể xong em đó có quyền chỉ định học sinh số 2 của đội mình kể tiếp đoạn 2 của câu chuyện theo nội dung tranh số 2. Nếu học sinh số 2 kể được  đoạn 2 thì bạn lại có quyền chỉ định tiếp học sinh 3 của đội mình kể tiếp đoạn 3 của câu chuyện. Nếu học sinh số 2 không kể được đoạn 2 thì cả lớp đếm từ “một đến năm”. Nếu vẫn không kể được thì học sinh 1 chỉ định bạn học sinh số 3 của đội mình kể tiếp đoạn 2…Cứ như thế cho đến khi kể xong câu chuyện. Bạn học sinh số 2 coi là bị điện giật.

+ Tiến hành tương tự với đội số 2.

* Cách đánh giá

– Đội có nhiều người bị điện giật là đội thua cuộc.

– Giáo viên tuyên dương đội thắng cuộc.

– Giáo viên yêu cầu học sinh cả lớp nhận xét thêm về cách kể, sự sáng tạo khi kể hay cách thể hiện ngôn ngữ…của đội thắng cuộc để khắc sâu về cách thể hiện nội dung câu chuyện. Giáo viên ghi điểm thưởng cho đội thắng cuộc hoặc có những phần thưởng nho nhỏ do giáo viên chuẩn bị trước.

* Ví dụ minh hoạ

DẠY BÀI: CHIẾC BÚT MỰC (Tiếng việt 2 – tập 1)

        Chuẩn bị

– Hai nhóm tham gia cuộc chơi (có số người bằng nhau).

– Bộ tranh gồm 4 tranh:

+ Tranh 1: Cô giáo gọi Lan lên bàn lấy mực.

+ Tranh 2: Lan khóc vì quên bút ở nhà.

+ Tranh 3: Mai đưa bút của mình cho Lan mượn.

+ Tranh 4: Cô giáo cho Mai viết bút mực, cô đưa bút của mình cho Mai mượn.

       Phổ biến luật chơi: (Như hướng dẫn phần trên).

       Tiến hành:

Hai nhóm “Oẳn tù tì” xem đội nào giành phần kể trước

Giáo viên gọi một học sinh xung phong kể theo tranh số 1, em học sinh 1 kể xong tranh 1 thì chỉ định 1 bạn khác trong nhóm – học sinh 2 kể tiếp theo tranh số 2…nếu học sinh 2 kể đúng và hay lại có quyền chỉ định tiếp học sinh 3 kể theo tranh số 3…cứ như thế cho đến tranh số 4.

Trường hợp nếu học sinh được chỉ định mà chưa kể được thì học sinh cả lớp đếm từ “một” đến “năm” mà bạn đó vẫn kể được thì học sinh đã kể được đoạn truyện trước đó có quyền chỉ bạn khác kể.

Tiến hành tương tự với nhóm thứ 2.

        Đánh giá

Sau lần chơi thứ nhất nếu nhóm nào có nhiều bạn bị điện giật thì nhóm đó thua cuộc.

Số thời gian còn lại cho nhóm học sinh khác tham gia cuộc chơi.

b.2. Kể chuyện truyền điện theo ý, theo đoạn

Chuẩn bị

– Đối với hình thức kể chuyện truyền điện theo ý, giáo viên chuẩn bị kế hoạch thật cụ thể để điều khiển cuộc chơi. Căn cứ vào nội dung câu chuyện giáo viên chia ra làm các đoạn nhằm giúp các em dễ kể và lôi cuốn được nhiều học sinh  chơi.

– Một bảng phụ ghi ý của từng đoạn để học sinh tiện theo dõi.

Luật chơi và cách đánh giá: (Giống phần trên).

Ví dụ minh hoạ

DẠY BÀI: MỘT TRÍ KHÔN HƠN TRĂM TRÍ KHÔN (Tiếng Việt 2-tập 2)

Chuẩn bị

– Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm (các nhóm có số lượng người như nhau, lực học tương đương nhau).

– Bảng phụ ghi ý của từng đoạn.

+ Đoạn 1: Chú Chồn kiêu ngạo.

+ Đoạn 2: Trí khôn của Chồn..

+ Đoạn 3: Trí khôn của Gà Rừng.

+ Đoạn 4: Cuộc gặp gỡ của đôi bạn.

– Giáo viên phổ biến luật (giống phần trên)

Tiến hành

Bốn học sinh đại diện 4 nhóm “oẳn tù tì” để chọn đội kể trước.

Đại diện (1 học sinh  khác) nhóm A kể trước theo ý của  đoạn 1. Sau khi kể xong bạn sẽ “truyền điện” thật nhanh chỉ một bạn nhóm B kể. Bạn được chỉ định phải đứng dậy nhanh kể tiếp đoạn 2 (dựa vào ý ghi trên bảng) của truyện. Nếu bạn kể đúng thì được chỉ định ngay một bạn khác của nhóm A kể tiếp đoạn thứ ba. Cứ như thế cho đến hết câu chuyện.

Cụ thể

Học sinh A1 kể: Ở khu rừng nọ, có một đôi bạn chơi rất thân với nhau. Tuy thế, Chồn vẫn ngầm coi thường bạn.

Học sinh A2 kể: Một buổi sáng đẹp trời đôi bạn rủ nhau đi dạo chơi trên cánh đồng …

Trường hợp học sinh được chỉ định mà không kể tiếp được cả lớp đếm từ “một -> năm“. Bạn vẫn không kể được thì phải đứng yên (điện giật) và học sinh  kể đúng đoạn trước lại có quyền chỉ định một người khác của nhóm bạn lên kể.

Cụ thể là: Trong câu chuyện trên, học sinh A1 (kể được) -> học sinh B1 (không kể được) -> học sinh A1 chỉ định tiếp học sinh B2 (kể được) -> học sinh  A2…

Đánh giá

Kết thúc cuộc chơi, nhóm nào có nhiều học sinh phải đứng (điện giật) thì nhóm đó thua cuộc.

Học sinh nhận xét các bạn kể (trong nhóm thắng cuộc) bình chọn người kể hay nhất. Tôi sẽ có điểm thưởng dành cho nhóm thắng cuộc và có phần quà nhỏ (bút chì, thước…) cho người kể hay nhất.

Thời gian sau đó, tôi tiếp tục cho hai nhóm còn lại thi tương tự.

   Kết luận

Bằng hình thức tổ chức cho học sinh “kể truyền điện” đã lôi cuốn, tạo cơ hội cho nhiều học sinh được kể chuyện và bộc lộ khả năng ghi nhớ truyện trong một tiết học.

3.2.2. Thi kể chuyện theo lời nhân vật

Do đặc thù của phân môn kể chuyện là các em phải được kể chuyện, được nghe bạn kể chuyện và có khả năng nhận xét và kể.Tôi đã tổ chức cho các em cách thi kể chuyện theo lời nhân vật.

* Mục tiêu

– Rèn kĩ năng kể chuyện theo lời của một nhân vật trong câu chuyện, trau dồi cách diễn đạt giàu trí tưởng tượng qua việc thay đổi ngôi kể. Luyện trí nhớ và khả năng dùng từ ngữ chính xác, diễn đạt sáng ‎ý và làm nổi bật ý nghĩa của câu chuyện.

 * Chuẩn bị

– Giáo viên dùng những mảnh bìa cứng làm thành những cái mũ đội trên đầu, mũ đó có vẽ hình nhân vật hoặc ghi tên nhân vật. (Nếu có điều kiện giáo viên có thể chuẩn bị được trang phục và đạo cụ đơn giản như: quần, áo, mũ, râu…để hoá trang thì càng tốt).

– Lập ban giám khảo (đại diện mỗi tổ 1 học sinh) để nhận xét các bạn tham gia cuộc thi theo lời nhân vật.

– Các bộ phiếu hoa có ghi lời nhận xét dành cho ban giám khảo.

 * Cách tiến hành

Giáo viên gọi học sinh theo tinh thần xung phong tham gia thi kể chuyện theo lời của một nhân vật (mỗi em kể theo lời của một nhân vật) mà em yêu thích. Khi kể học sinh đó hoá trang (đội mũ, mặc áo…) thành nhân vật đó để kể lại câu chuyện. Khi kể chuyện thì dùng đại từ chỉ ngôi là “tôi, mình, tớ” để kể.

  * Cách đánh giá

Ban giám khảo có lời nhận xét từng học sinh kể chuyện theo các tiêu chuẩn sau:

– Kể đủ chi tiết, rõ trình tự diễn biến, đúng lời của nhân vật đã chọn. Khi kể có sự sáng tạo, thái độ, cử chỉ phù hợp với đặc điểm nhân vật …

–  Kể khá đầy đủ chi tiết, tương đối rõ trình tự diễn biến của câu chuyện và đúng lời nhân vật.

– Kể chưa đầy đủ chi tiết, chưa thật rõ trình tự diễn biến của câu chuyện, giọng điệu và cử chỉ chưa phù hợp với đặc điểm nhân vật.

     * Ví dụ minh hoạ:

DẠY BÀI: NGƯỜI THẦY CŨ (Tiếng Việt 2- tập 1)

          Chuẩn bị

– Quần áo bộ đội, mũ, kính, …

– Bầu ban giám khảo (mỗi tổ 1 học sinh + giáo viên).

        Tiến hành

Trong truyện kể: “Người thầy cũ” để các em nắm được từng nhân vật trong truyện tôi đặt một số câu hỏi gợi ý sau:

+ Câu chuyện này có mấy nhân vật?

+ Chú bộ đội đến trường làm gì?

+ Dũng đã suy nghĩ gì khi bố đến thăm thầy giáo cũ?

Để phát huy tính độc lập và sáng tạo của học sinh tôi gọi 1 nhóm lên kể mẫu sau đó cho học sinh dưới lớp nhận xét từng vai diễn. Nếu học sinh kể không được giáo viên có thể gợi ‎ý cho các em cách thể hiện từng vai, phân tích từng lời nói, điệu bộ của từng nhân vật trong truyện.

Sau khi kể xong giáo viên tiếp tục gọi một nhóm khác lên kể.

Đánh giá

Cuối cùng cả lớp cùng theo dõi kết quả đánh giá của ban giám khảo. Nhận xét của ban giám khảo sẽ là kết quả của các nhóm vừa kể.

* Kết luận

Cũng là hình thức tổ chức dạy học kể chuyện theo lời của một nhân vật nhưng khi giáo viên thay đổi bằng cách “Thi kể chuyện theo lời của nhân vật” các em rất thích được thể hiện mình trước lớp, kể chuyện với phong cách tự nhiên, vui vẻ, hấp dẫn, biết cách thể hiện các tình tiết câu chuyện, biết cách nói lời hội thoại trong truyện.

3.2.3. Thi sắp xếp đúng trình tự câu chuyện

  1. Mục tiêu

Mục đích của hình thức thi “Sắp xếp đúng trình tự câu chuyện ” giúp học sinh trau dồi khả năng ghi nhớ nội dung của câu chuyện đã học, biết sắp xếp các ý theo đúng trình tự câu chuyện.

  1. Cách chơi như sau

 * Chuẩn bị

– Giáo viên làm các phiếu bằng giấy hoặc bìa kích thước khoảng 10cm x 50cm đủ để ghi rõ các ý tóm tắt (hoặc chi tiết nổi bật) theo từng đoạn của câu chuyện, tạo thành một bộ phiếu. Có thể làm bộ phiếu cho 2 tổ (nhóm cùng chơi). Mỗi bộ phiếu để trong một phong bì to, các phiếu để lộn xộn, không đúng trình tự của câu chuyện. Ngoài bìa cần đề tên câu chuyện.

– 1 đồng hồ để tính thời gian.

– Lập các nhóm học sinh tham gia cuộc chơi (2 nhóm, mỗi nhóm có 4 hoặc 5 học sinh).

– Bầu tổ trọng tài (gồm có giáo viên và 3 học sinh đại diện 3 tổ).

 * Luật chơi

– Giáo viên phổ biến luật chơi:

+ 2 nhóm cùng lên bảng.

+ Mỗi nhóm nhận một bộ phiếu (đựng trong phong bì có đề tên câu chuyện) khi giáo viên phát lệnh”bắt đầu” cả hai nhóm cùng được bóc bì thư, đọc và cùng sắp xếp thật nhanh các phiếu sao cho đúng trình tự nội dung câu chuyện.

– Thời gian thực hiện trò chơi là 3 phút. (Thời gian này có thể tuỳ thuộc vào số phiếu nhiều hay ít mà giáo viên qui định).

* Cách đánh giá

Sau hiệu lệnh “hết giờ” 2 đội chơi phải dừng lại, giáo viên cùng tổ trọng tài đánh giá kết quả sắp xếp ý của các nhóm xem đội nào đúng toàn bộ hay sai, sai ở chi tiết nào, sai mấy chi tiết. Đúng hết 20 điểm, sai mỗi chi tiết trừ 2 điểm.

Dựa vào kết quả, trọng tài công bố giải nhất, nhì…nếu cả 2 đội cùng đúng toàn bộ thì dựa vào thời gian để đánh giá. Nếu cả 2 đội không vi phạm thời gian thì hai đội đồng giải nhất.

Ví dụ minh hoạ:

DẠY BÀI: CÂU CHUYỆN BÓ ĐŨA (Tiếng Việt 2- tập 1)

Chuẩn bị

– Bầu tổ trọng tài.

– Chọn 2 đội chơi, mỗi đội 4 em, (học sinh xung phong chơi).

– Hai bộ phiếu có nội dung như sau:

+ Phiếu 1: Thấy các con không thương yêu nhau, người cha rất buồn phiền
+ Phiếu 2: Ngày xưa, ở một gia đình kia, có hai anh em.
+ Phiếu 3: Người cha liền cởi bó đũa rồi thong thả bẻ gãy từng chiếc rất dễ dàng.
+ Phiếu 4: Lúc nhỏ anh em sống rất hòa thuận. Khi lớn lên, anh có vợ, em có chồng, tuy mỗi người một nhà nhưng vẫn hay va chạm.
+ Phiếu 5: Thấy vậy, bốn người con cùng nói :

– Thưa cha, lấy từng chiếc mà bẻ thì có khó gì!

+ Phiếu 6: Một hôm, ông đặt một bó đũa và một túi tiền trên bàn, rồi gọi các con, cả trai, gái, dâu, rể lại và bảo:

– Ai bẻ gãy được bó đũa này thì cha thưởng cho túi tiền.

+ Phiếu 7: Như thế các con đều thấy rằng chia lẻ ra thì yếu, hợp lại thì mạnh. Vậy các con phải biết thương yêu, đùm bọc và đoàn kết thì mới có sức mạnh.
+ Phiếu 8: Bốn người con lần lượt bẻ bó đũa. Ai cũng cố hết sức mà không sao bẻ gãy được.

        Phổ biến luật chơi: Giống như phần đầu đã nêu.

Tiến hành:

Giáo viên gọi tất cả 8 học sinh xung phong lên bảng và chia làm 2 đội. Yêu cầu mỗi đội cử một em đại diện lên lấy phong bì. Sau hiệu lệnh “bắt đầu” hai nhóm bóc phong bì ra và chia cho mỗi bạn 2 phiếu, các bạn đọc và sắp xếp lên bảng từ theo trình tự câu chuyện. Khi có hiệu lệnh “hết giờ” cả hai nhóm dừng lại.

Giáo viên cùng tổ trọng tài kiểm tra và công bố kết quả. Cả lớp khen đội thắng cuộc.

(Thứ tự xếp đúng như sau: Phiếu 2, phiếu 4, phiếu 1, phiếu 6, phiếu 8, phiếu 3, phiếu 5, phiếu 7).

     Kết luận

Bằng cách tổ chức cho học sinh sắp xếp ý đúng trình tự của câu chuyện giáo viên đã giúp học sinh ghi nhớ được nội dung và nhanh chóng tái hiện lại các chi tiết trong câu chuyện một cách rõ ràng.

3.2.4.Tổ chức cho học sinh đóng vai                                      

Mục đích: Đóng vai các nhân vật để kể lại nội dung câu chuyện là một hình thức tổ chức hấp dẫn đối với học sinh tiểu học. Với hình thức này khi các em sắm vai một nhân vật nào đó nhất là một nhân vật mà em yêu thích thì các em vô cùng thích thú.

Ví dụ 1:  DẠY BÀI: NHỮNG QUẢ ĐÀO (Tiếng Việt 2- tập 2)

 Chuẩn bị

– Một học sinh vai người dẫn truyện.

– Một học sinh vai ông.

– Một học sinh vai Xuân.

– Một học sinh vai Vân.

– Một học sinh vai Việt.

– Trang phục phù hợp với mỗi nhân vật, quả đào, …

Tiến hành

Người dẫn truyện: Sau một chuyến đi xa, người ông mang về nhà bốn quả đào. Ông bảo vợ và các cháu.

Học sinh đóng vai ông: Quả to này xin phần bà. Ba quả nhỏ hơn phần các cháu.

Người dẫn truyện: Buổi chiều hôm ấy, ông hỏi các cháu.

Học sinh đóng vai ông: Thế nào các cháu thấy đào có ngon không?

Người dẫn truyện: Cậu bé Xuân nói.

Học sinh đóng vai Xuân: Đào có vị rất ngon và mùi thật là thơm. Cháu đã đem hạt trồng vào một cái vò. Chẳng bao lâu, nó sẽ mọc thành một cây đào to đấy, ông nhỉ?

Người dẫn truyện: Ông hài lòng nhận xét.

Học sinh đóng vai ông:  Mai sau cháu sẽ làm vườn giỏi.

Người dẫn truyện: Cô bé Vân nói với vẻ tiếc rẻ.

Học sinh đóng vai Vân:  Đào ngon quá, cháu ăn hết mà vẫn thèm. Còn hạt thì cháu vứt đi rồi.

Người dẫn truyện: Ôi, cháu của ông còn thơ dại quá. Thấy Việt chỉ chăm chú nhìn vào tấm khăn trải bàn ông ngạc nhiên hỏi.

Học sinh đóng vai ông: Còn Việt, sao cháu chẳng nói gì thế?

Học sinh đóng vai Việt: Cháu ấy ạ, cháu mang đào cho Sơn. Bạn ấy bị ốm. Nhưng bạn ấy không muốn nhận. Cháu đặt quả đào trên bàn rồi trốn về.

Người dẫn truyện: Ông lão thốt lên và xoa đầu đứa cháu nhỏ.

Học sinh đóng vai ông: Cháu là người có tấm lòng nhân hậu!

 Đánh giá

Sau khi học sinh sắm vai và kể xong câu chuyện, tôi yêu cầu học sinh  cả lớp nhận xét bạn kể theo các  tiêu chí sau:

– Giọng kể của bạn có khắc hoạ được tính cách của nhân vật không? Đã sáng tạo trong lời thoại chưa?

– Cả lớp bình chọn người nhập vai tốt nhất.

Kết luận: Trong giờ kể chuyện học sinh được đóng vai nhân vật để kể lại câu chuyện giáo viên thấy học sinh có cơ hội để thể hiện khả năng diễn xuất của mình. Giúp các em mạnh dạn và tự tin trong học tập.

* Một số hình ảnh minh họa:

Một số hình ảnh trong tiết dạy học kể chuyện

3.3. Tổ chức chuyên đề

Tổ chuyên môn chúng tôi tổ chức các chuyên đề để mọi người dự nhận xét, rút kinh nghiệm và thống nhất quy trình, phương pháp dạy đối với các môn học nói chung, phân môn Kể chuyện nói riêng.

Thông qua các chuyên đề ngoài việc giúp giáo viên nắm vững quy trình của các dạng bài trong phân môn Kể chuyện thì việc giúp giáo viên nắm vững các phương pháp để dạy tốt phân môn Kể chuyện cũng là một việc làm rất quan trọng.

Thống nhất các phương pháp dạy từng loại bài, các phương pháp ứng với từng hoạt động của từng bài, cách chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học như thế

nào cho đạt hiệu quả cao.

3.4. Một số biện pháp áp dụng khác.

– Để tiết kể chuyện đạt hiệu quả cao, ngoài các biện pháp đã nêu ở trên, trước hết giáo viên phải nhớ được nội dung câu chuyện, lời kể mẫu phải rõ ràng, khúc chiết, rành mạch, thông qua cử chỉ thái độ.

– Cho các em tìm hiểu trước câu chuyện ở nhà.

– Giáo viên cần quan tâm đến kĩ năng nói ở một số em còn chậm để tập cho các em tính mạnh dạn, tự tin nói trước lớp, trước tập thể. Khi các em có tiến bộ cần tuyên dương, khen ngợi để các em phấn khởi và làm động lực cho lần kể sau.
– Giáo dục cho các em hiểu thêm về môi trường thông qua nội dung câu chuyện mà các em vừa học từ đó các em sẽ hứng thú và hăng say học tập hơn trong tiết kể chuyện. Nhắc nhở các em luôn chú ý lắng nghe các bài kể chuyện sinh hoạt ngoài giờ lên lớp để học tập. Hoặc nghe kể chuyện trên đài, ti vi…

  1. Kết quả- Bài học kinh nghiệm

Sau một năm đưa biện pháp “Một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Kể chuyện lớp 2 ở Trường Tiểu học” nơi tôi công tác trường tôi đã thu được một số kết quả không chỉ ở học sinh mà ở cả giáo viên. Cụ thể như sau:

* Đối với đồng nghiệp

– Việc tổ chức các chuyên đề giúp cho giáo viên nắm vững quy trình tiết dạy, tiếp cận với việc đổi mới phương pháp một cách nhanh chóng, thống nhất việc sử dụng đồ dùng sao cho hiệu quả.

– Việc đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức một cách chủ động, học sinh sẽ hiểu bài sâu và hứng thú học tập

* Đối với học sinh

Sau khi lựa chọn để vận dụng một số phương pháp đã nêu trên vào các tiết học thì kết quả tăng lên rõ rệt:

– Học sinh yêu thích môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Kể chuyện.

– Mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ, làm giàu vốn sống và vốn văn học

cho các em.

– Phát triển tư duy, nâng cao hiểu biết về đời sống, góp phần hình thành nhân cách con người, năng cao trình độ Tiếng việt ở các em. Kết quả thu được đến cuối học kì II năm học 2017-2018 như sau:

TT Lớp Sĩ số Học sinh

kể tốt

Học sinh

biết kể

Học sinh

chưa biết kể

1 2A1 48 25= 52,1 21 =43,75 2= 4,2
2 2A2 46 23=50 21 =45,6 2 = 4,3

Nhìn vào bảng kết quả trên, cho thấy cách tổ chức học sinh kể chuyện theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh kể chắc chắn, thành thạo, chất lượng kể

chuyện của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng tuần….

Mặt khác, qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp, tôi thấy giờ học diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động.

Còn riêng bản thân tôi,tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình rất say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học Kể chuyện. Cho nên tiết Kể chuyện bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước. Học sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Kể chuyện. Học sinh lớp tôi đã ý thức hơn trong các giờ học kể chuyện, học sinh tự tin và hứng thú học tập.

 4.1. Bài học kinh nghiệm

Qua quá trình nghiên cứu một số biện pháp dạy học phân môn kể chuyện ở học sinh lớp 2, tôi đã rút ra được những kinh nghiêm sau:

– Trước hết người giáo viên phải có tâm với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi, trao đổi kiến thức, cập nhật những vấn đề mới của xã hội để có phương pháp dạy phù hợp.

– Nắm chắc nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng. Nắm vững từng đối tượng học sinh để có những sáng tạo, cải tiến về mặt phương pháp sao cho phù hợp với từng đối tượng và từng bài cụ thể.

– Cần xác định rõ mục tiêu yêu cầu bài dạy, các bước dạy Kể chuyện cho học sinh.

– Thường xuyên dự giờ, quan sát tìm hiểu thực tế để rút ra ưu khuyết điểm của phương pháp giảng dạy mình đang thực hiện từ đó có hướng khắc phục.

– Hình thành cho các em kĩ năng học tập, làm việc một cách khoa học.

– Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh  hình thành kĩ năng và kiến thức mới.

– Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ kiến thức lâu.

– Sử dụng nhiều hình thức: thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em nỗ lực học tập.

– Phải có phương tiện tối thiểu để phục vụ bài giảng: tranh minh họa, bảng phụ. Song cần lưu ý rằng: hãy triệt để đồ dùng sẵn có.

 

 

  1. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
  2. Kết luận

Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng nói cho HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Kể chuyện là hết sức cần thiết.Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt, một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta.

– Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy ở từng bài Kể chuyện, tôi nhận thấy các em không sợ học phân môn kể chuyện nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ rằng, với biện pháp trên, không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp dụng được. Các biện pháp trên,  tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ hẳn trong năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.

Trên đây là kinh nghiệm của tôi nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong phân môn Kể chuyện nói riêng và chất lượng học Tiếng Việt ở tiểu học nói chung.

  1. Khuyến nghị
  2. Đối với phòng giáo dục

–  Phòng giáo dục nên tổ chức thêm các chuyên đề về phân môn Kể chuyện để giáo viên có điều kiện học hỏi, nắm vững hơn nội dung, phương pháp và quy trình dạy các kiểu bài của phân môn Kể chuyện.

– Trang bị thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để giờ dạy đạt kết quả cao hơn.

  1. Đối với ban giám hiệu

– Hằng năm cần tổ chức các phong trào thi đua kể chuyện, để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.

– Nhà trường nên trang bị thêm tranh kể chuyện cho tất cả các khối lớp, mua thêm một số đồ dùng cần thiết để phục vụ cho việc dạy học kể chuyện như: bút chỉ tranh kể chuyện, míc để nói, máy chiếu,…

– Trong các kì thi giáo viên dạy giỏi nên khuyến khích giáo viên dạy Kể chuyện để trao đổi tìm ra phương pháp hay.

  1. Đối với giáo viên

Giáo viên phải hết sức nhiệt tình, tận tụy với công việc; phải quan tâm sâu sắc đến mọi đối tượng học sinh; phải thường xuyên đổi mới phương pháp và hình thức dạy học sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh.Đồng thời coi trọng môn kể chuyện như các môn học khác.

  1. Đối với gia đình

Tôi muốn đề xuất với gia đình học sinh, mỗi phụ huynh phải là tấm gương sáng cho con mình học tập. Phụ huynh cần quan tâm đến con cái nhiều hơn nữa.

  1. Đối với các tổ chức khác

– Công ty thiết bị sách và đồ dùng trường học cần có sự đầu tư hơn nữa về đồ dùng dạy học của môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Kể chuyện.

Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi qua thực tế giảng dạy.Rất mong nhận được góp ý khích lệ của các thầy cô giáo và các bạn để tôi có thể tiếp tục hoàn thiện đề tài làm tài liệu hữu ích phục vụ đắc lực cho đội ngũ giáo viên trong quá trình dạy học kể chuyện.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

  Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2021

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đỗ Đình Hoan (2002), Một số vấn đề về chương trình Tiểu học mới, Nhà xuất bản Giáo dục.
  2. Lê A- Đỗ Xuân Thảo (2006), Giáo trình Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội.
  3. Lê Phương Nga, Nguyễn Trí (1999), Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục.
  4. Mai Quang Tâm (2006), Giáo trình bồi dưỡng hiệu trưởng trường Tiểu học – học phần IV, Nhà xuất bản Hà Nội.
  5. Nguyễn Trại (2007), SGK và thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2, Nhà xuất bản Hà Nội.
  6. Nguyễn Trí (2002), Dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới, Nhà xuất bản Giáo dục.
  7. Trần Mạnh Hưởng, Lê Hữu Tỉnh (2000), Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở trường Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

yopo.vn—SKKN KỂ CHUYỆN LỚP 2

Bài viết liên quan
Tìm công ty
Gọi trực tiếp
Chat ngay
Chat trên Zalo

TẢI TÀI LIỆU

Bước 1: Chuyển phí tải tài liệu vào số tài khoản sau với nội dung: Mã tài liệu

Chủ TK: VU NGO DAN

                                       NGÂN HÀNG VIETCOMBANK, STK : 007 1000 708 544 Copy
* (Nếu khách hàng sử dụng ngân hàng VIB thì chuyển tiền vào STK VIB để tránh bị lỗi treo giao dịch)
NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VIB, STK: 888 189 686 Copy

Bước 2: Gửi ảnh chụp giao dịch vào Zalo kèm mã tài liệu để nhận tài liệu qua Zalo hoặc email

Nhắn tin tới Zalo SANGKIENMOI (nhấn vào đây để xác nhận và nhận tài liệu!)